Cuộc đời và sự nghiệp Đoàn_Hữu_Trưng

Tuổi trẻ

Cha mất sớm, mẹ bị mù, đông em, nên từ thuở nhỏ ông đã phải làm lụng vất vả để nuôi em, nuôi mẹ. Dù vậy, vốn thông minh và ham học, ngay từ buổi ấy ông đã là người nổi tiếng hay chữ khắp vùng.

Vào một dịp Tết, nhờ một câu đối mà Đoàn Trưng và Đoàn Trực được Tuy Lý Vương Miên Trinh (18201897) cho vào học trong vương phủ [4] Từ đó, tài học của Đoàn Trưng có dịp vang lên chốn kinh thành. Năm Giáp Tý (1864), ông được Tùng Thiện Vương Miên Thẩm (anh ruột Tuy Lý Vương), cũng vì quý tài, gả con gái đầu là Thể Cúc cho Đoàn Trưng, dù lúc ấy ông chưa đỗ đạt gì.

Mưu sự

Lăng Tự Đức, tức Vạn Niên cơ.

Vua Tự Đức kế ngôi giữa lúc chế độ phong kiến đang bước vào giai đoạn suy yếu. Thực dân Pháp đang lấn chiếm nước Việt và nội bộ hoàng tộc cũng đang phân hóa [5]. Đoàn Trưng nhận thấy cần phải thay thế Tự Đức, và người được Đoàn Trưng cùng phe của ông chọn là Đinh Đạo[6] (con Hồng Bảo). Cho nên ở trong Ký Thưởng viên của cha vợ một thời gian, Đoàn Trưng xin ra ngoài ở riêng, để dễ dàng mưu sự...

Trước tiên, Đoàn Trưng cùng với Đoàn Trực, Đoàn Ái[7] Trương Trọng Hòa, Phạm Lương (ghi theo Đỗ Bang, Phạm Văn Sơn ghi Phạm Lương Thành) lập ra một thi xã gọi là Đông Sơn thi tửu hội, lấy rượu thơ bề ngoài mà bàn quốc sự bên trong, để che mắt quan quân triều đình. Sau hội chiêu nạp thêm một số quan lại, binh lính và sư sãi, như: Tôn Thất Cúc (hữu quân), Tôn Thất Giác (vệ úy), Bùi Văn Liệu (suất đội), Lê Văn Tề (lính vũ lâm), Nguyễn Văn Quí (nhà sư trụ trì chùa Long Quang, có chùa riêng là Pháp Vân, tức chùa Khoai, gần công trường Vạn Niên), Nguyễn Văn Viên (nhà sư),...

Và lực lượng chính của cuộc nổi dậy là khoảng ba ngàn binh trà trộn vào lực lượng xây lăng Tự Đức, một bộ phận nhỏ phu thợ và làm lụng để xây lăng cho vua.

Nổi dậy

Tháng 9 năm Bính Dần (1866), Đoàn Hữu Trưng bàn với mẹ và vợ Đinh Đạo xin lập đàn chay cho Hồng Bảo để có cớ tập hợp lực lượng. Buổi lễ cúng kéo dài đến ngày thứ ba, khoảng 3 giờ sáng, ngày 16 tháng 9 năm 1866[8]

Kiều Oánh Mậu kể:

Đoàn Hữu Trưng dẫn đầu đoàn quân khởi nghĩa kéo sang công sở Vạn Niên. Đoàn Hữu Trưng tự xưng là tham tri bộ Công, ngồi trên chiếc võng điều có lọng che và lính hầu quạt theo lệnh vua để khám xét công trường. Bắt hai tên đốc công cay nghiệt là Nguyễn Văn Chất và Nguyễn Văn Xa, điều về kinh trị tội. Còn các binh phu hễ ai đang cầm chày giã vôi trong tay thì được đổi phiên về nghỉ. Binh phu nghe nói cả mừng đổ xô vào bắt thống chế Xa trói lại rồi vác chày vôi theo Trưng tiến về phía kinh thành...[9]

Riêng biện lý Chất ngẫu nhiên đêm hôm ấy lén về thành nên thoát nạn...

Tờ mờ sáng, nhờ Tôn Thất Cúc mở cửa nên đoàn quân nổi dậy nhanh chóng tiến vào Đại cung. Sau khi chém bị thương vệ úy Nguyễn Thịnh và chỉ huy sứ Phạm Viết Trang, quân nổi dậy tiến vào điện Cần Chánh. Đoàn Trưng còn đang tìm cửa Tấu Môn thì chưởng vệ long võ quân Hồ Oai xuất hiện. Thấy quân nổi dậy đông quá, Hồ Oai hoảng sợ chạy lui về cửa Càn Thành, nơi vua đang ngủ. Đoàn Trưng nhanh chóng đuổi theo rồi lia gươm qua khe cửa, chém mất tai phải của Hồ Oai, nhưng Hồ Oai vẫn ghì chặt cửa nên Đoàn Trưng không vào được.

Bắt không được vua, Đoàn Hữu Trưng cho tập trung quân tại sân Điện Thái Hòa (Hoàng thành Huế), sai Đoàn Tư Trực đến khám đường rước Đinh Đạo về tấn phong [10] Vì thế Hồ Oai đã kịp thời dẫn quân đến phản công. Hai bên đánh nhau một hồi rút cuộc anh em Trưng đều bị bắt sống...[11]

Thất bại

Cuộc nổi dậy thất bại, ba anh em Đoàn Trưng, Đoàn Trực, Đoàn Ái bị xử lăng trì. Đoàn Thi bị án tử hình. Đoàn Khóa mất tích, Đoàn Hào chết, Đoàn Thị Châu bị kết án tù đày 20 năm sau mới về... Cả họ Đoàn bị đổi sang họ Đoạn, con cháu phải lưu tán, không được thi cử...

Vua Tự Đức cho tịch thu gia sản của Đoàn Trưng, chỉ để lại một phần nhỏ cho bà mẹ vì bà đã lớn tuổi lại bị mù. Thể Cúc, vợ Đoàn Trưng, nhờ trước ngày khởi sự, bà đã bị "đuổi" về nhà bố mẹ ruột vì tội "bất kính với mẹ chồng"[12] nên được miễn nghị, nhưng buộc cải sang họ mẹ (họ Tống) và phải đi tu...

Đoàn Hữu Trưng và Thể Cúc có một đưa con trai tên là Ngáo. Vì quá nhỏ nên chưa xử, đưa cho người bà con đang ở rể trong phủ Tuy Lý vương nuôi. Khoảng 13 tuổi, Ngáo bỗng dưng mất tích.[13]

Cả gia đình Hồng Bảo gồm 8 người là Đinh Đạo (Ưng Đạo), Đinh Tự, Đinh Chuyên, Đinh Tương (đều là con Hồng Bảo), Thị Thụy (vợ Hồng Bảo, mẹ Đinh Đạo) và hai đứa con Đinh Đạo (một trai, một gái) đều bị xử giảo (treo cổ).

Và cũng do sự việc này, vua Tự Đức phải đổi tên Vạn niên cơ thành Khiêm Cung[14] và viết bài biểu trần tình dài để biện bạch, trong đó có câu: dân chúng nhất thời dại dột mà nghe theo chứ không thật tình thù oán triều đình.

Tính ra khi Đoàn Hữu Trưng bị giết (Bính Dần [1866]), ông mới 22 tuổi.